5 Điều Lệ Ăn Uống Đã Lỗi Thời

Thứ Tư, 17/12/2008 02:59

873 xem

0 Bình luận

(0)

2811

Đừng để các điều lệ cũ kỹ về ăn uống ảnh hưởng đến những bữa ăn cũng như dạ dày của bạn. Những hiểu lầm về các thành phần dinh dưỡng sẽ đẩy con người vào trạng thái lo lắng, bối rối không biết chọn món ăn như thế nào để đảm bảo dinh dưỡng.
Ngay cả khi thực tế chúng ta đã ăn đầy đủ chất dinh dưỡng và tránh được những món ăn không tốt cho sức khỏe thì những hiểu lầm này vẫn khiến đa số lung lay. Dưới đây là 5 sai lầm về dinh dưỡng đã đăng tải từ rất lâu và đã được phủ nhận bởi những nghiên cứu khoa học.

1. Món ăn giàu hàm lượng protein không tốt cho thận

Nguồn gốc: Trở lại năm 1983, các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện ra rằng ăn nhiều đạm (protein) sẽ làm tăng hệ số lọc ở tiểu cầu thận (GFR). Hệ số lọc ở tiểu cầu thận được tính bằng lượng máu thận lọc được trong mỗi phút. Từ phát hiện này, rất nhiều nhà khoa học đã cho rằng GFR tăng cao chứng tỏ thận của bạn đang trong tình trạng bất ổn.


Thực tế: Gần hai thập kỷ trước, những nhà nghiên cứu người Hà Lan phát hiện rằng đúng là những bữa ăn giàu đạm (protein) sẽ làm tăng GFR nhưng nó lại không gây ra tác động bất lợi cho hoạt động của thận. Thực ra chưa có một nghiên cứu hoàn chỉnh nào công bố chi tiết về việc ăn nhiều protein sẽ ảnh hưởng tới thận của bạn.

2. Khoai lang tốt hơn khoai tây

Nguồn gốc: Đa số người Mỹ ăn những loại khoai tây đã được chế biến kỹ như khoai tây chiên, khoai tây snack... những món ăn dẫn tới các căn bệnh như béo phì, tiểu đường. Trong khi đó khoai lang thường được dùng ăn sống, lại được ca ngợi với lượng chất dinh dưỡng dồi dào và có chỉ số glycemic thấp hơn "người anh em họ đằng xa" kia.

Thực tế: Khoai tây và khoai lang khác hẳn nhau về những chất dinh dưỡng bên trong nhưng lại có tính bổ trợ cho nhau và không có "khoai" nào là không cần thiết cả. Ví dụ, khoai lang có nhiều chất xơ và vitamin A nhưng khoai tây lại có hàm lượng chất khoáng cần thiết rất lớn như sắt, ma-giê, và kali.

Về chỉ số glycemic, khoai lang đúng là thấp hơn khoai tây. Nhưng món khoai tây bỏ lò thường được ăn kèm với phômai... những phụ gia này lại chứa chất béo có khả năng làm giảm chỉ số glycemic trong bữa ăn. Điều quan trọng là: thay vì ăn những món khoai tây được chế biến bằng dầu mỡ như khoai tây rán hay snack thì chúng ta dùng món khoai tây bỏ lò, khoai tây nướng.

3. Si-rô ngô giàu fructose (HFCS) béo hơn đường thông thường

Nguồn gốc: Trong một nghiên cứu từ năm 1986, những con chuột thí nghiệm được cho ăn một lượng lớn fructose có dấu hiệu xuất hiện mỡ trong máu. Sau đó tới năm 2002, tại trường Đại học California, các nhà nghiên cứu công bố một bản thuyết trình hết sức chi tiết lưu ý người dân về lượng fructose sử dụng ngày càng nhiều, trong đó có nhắc tới cả HFCS, song song với nó là tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng.


Thực tế: Cả HFCS và đường máu đều cùng chứa fructose. HFSC có hai loại là HFCS-42 và HFCS-55, chứa 42% và 55% fructose theo thứ tự. Đường mía thì đồng nhất hơn, chứa 50% là fructose. Đây là lý do mà những nhà khoa học ở trường đại học California xác định lượng fructose của cả HFCS và đường mía. Sự thực thì không có bằng chừng nào chỉ ra được sự khác nhau giữa hai loại đường này. Cả hai đều gây tăng cân khi sử dụng quá nhiều vì thế cần thận trọng khi sử dụng các loại nước ngọt.Ăn thịt đỏ có khả năng gây ung thư? Nguồn: thesun.co.uk
4. Thịt đỏ gây ung thư

Nguồn gốc: Theo một nghiên cứu được tiến hành vào năm 1986, những nhà nghiên cứu người Nhật Bản phát hiện được các tế bào ung thư phát triển ở chuột khi cho ăn thực phẩm có chứa amin dị vòng, một loại hợp chất xuất hiện khi chế biến thịt ở nhiệt độ quá cao, bị cháy. Và kể từ đó trở đi, một vài nghiên cứu trên diện rộng đã cho thấy mối liên hệ giữa thịt và ung thư.

Thực tế: Không có một nghiên cứu nào chứng minh được mối liên hệ trực tiếp giữa việc sử dụng thịt đỏ và bệnh ung thư. Sở dĩ nghiên cứu đã sai lầm khi dựa vào việc sử dụng thịt thường xuyên trong các bữa ăn của đối tượng nghiên cứu, từ đó đưa ra những kết luận sai lệch. Lưu ý với những món nướng, trước khi ăn cần bỏ những phần bị nướng quá lửa để đảm bảo sức khỏe.

5. Muối làm tăng huyết áp

Nguồn gốc: Từ những năm 40, một nhà nghiên cứu của trường đại học Duke tên là Walter Kemper đã trở nên nổi tiếng với phương pháp chữa cao huyết áp bằng việc hạn chế sử dụng muối. Về sau này, có một vài nghiên cứu cũng xác định rằng việc giảm muối trong bữa ăn có tác dụng giảm thiểu chứng tăng huyết áp.

Thực tế: Rất nhiều những bài báo nghiên cứu khoa học đã khẳng định rằng những người có huyết áp bình thường lại phải giảm lượng muối vì lúc đó cơ thể bạn mới nhạy cảm với muối và cần cắt giảm lượng muối sử dụng trong bữa ăn. Trong vòng 20 năm qua, những người bị huyết áp cao không muốn giảm lượng muối thường hướng tới những thực phẩm giàu kali bởi sự cân bằng giữa hai loại chất khoáng này (kali và natri trong muối) mới là điều đáng bàn.

Theo phát hiện của những nhà nghiên cứu Hà Lan, khi nạp vào cơ thể một lượng kali thấp thì tác dụng của nó cũng tương tự với một lượng lớn muối nạp vào cơ thể. Bất ngờ hơn nữa, mỗi người bình thường trung bình nạp vào cơ thể 3,1g kali - ít hơn mức khuyên dùng 1,6g. Hãy chọn những bữa ăn có nhiều kali bằng cách nạp thật nhiều hoa quả, rau và các loại đậu.

Danh mục bài viết

Đang tải dữ liệu loading