Tác dụng của các loại Nhộng

Thứ Bảy, 18/02/2012 10:06

5,447 xem

0 Bình luận

(0)

3203

Nhiều người không ăn được món nhộng bởi hình thù không mấy đẹp mắt của chúng. Những từ các loại nhộng này có rất nhiều bài thuốc quý cũng như tác dụng tuyệt vời của chúng.

Trong thiên nhiên, có một số loại côn trùng dưới dạng nhộng trước khi trở thành cá thể trưởng thành, đã được sử dụng làm thuốc phổ biến trong kho tàng y học dân gian.

- Nhộng ong: có hai loại được sử dụng là nhộng ong nuôi (ong mật) và nhộng ong bò vẽ. Nhộng ong nuôi có vị hơi ngọt, lạnh, không độc, có tác dụng sát khuẩn, chống tổn thương suy yếu nội tạng, ích khí, chống lão suy, làm nhan sắc tươi nhuận, da dẻ mịn màng. Người dân ở tỉnh Bình Thuận rất thích ăn nhộng ong nuôi dưới dạng sống hoặc tẩm bột và bơ rồi chiên vàng để làm thuốc bồi dưỡng, nâng cao thể lực. Nhộng ong nuôi 3 - 5 con, nghiền nát với ít đường trắng, ăn chữa xuất huyết; nếu phối hợp với tầng sáp 10g, sắc uống chữa ho gà.

- Nhộng ong bò vẽ: có thân mềm, màu trắng ngà, chứa nhiều acid amin, chất béo, vitamin, đường và muối khoáng. Dược liệu có vị ngọt, mặn, tính mát, có độc, tác dụng giảm đau, chống nôn, tăng lực, bền cơ. Nhộng ong bò vẽ 3 - 5g sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày chữa ngực bụng đau, nôn khan.

Có thể sao vàng, tán bột, trộn với mật mà uống. Dịch chiết từ nhộng ong bò vẽ được pha chế thành dạng nước uống có tác dụng làm giảm mỏi cơ bắp, nâng cao thể lực và sức bền. Thuốc được dùng cho những vận động viên chạy đường dài.

Thuốc từ các loại nhộng, Sức khỏe đời sống, suc khoe, nhong, con truong, chua benh, y hoc, sot xuat huyet, dau bung, bao

Nhộng tằm là một vị thuốc tốt cho người già yếu, trẻ còi xương.

- Nhộng tằm: thu hoạch ở những kén đã chín vàng, thường dùng tươi, có thể phơi hay sấy khô.

Nhộng tằm, tên thuốc là tàm dũng, có vị mặn, ngọt, bùi béo, tính bình, không độc, có tác dụng bổ dưỡng, nhuận tràng, mạnh gân xương. Trẻ em ăn nhộng tằm rất tốt vì calci và phospho trong nhộng rất cần cho cơ thể của trẻ chống còi xương.

Người già yếu, thận hư, liệt dương, tiểu són, tiểu nhiều lần, táo bón cũng nên dùng nhộng tằm thường xuyên. Dạng dùng thông thường là cho nhộng vào cháo nóng, nhất là cháo nấu chim sẻ, chim cút hoặc rang nhộng với hành mỡ hay xào nhộng với lá hẹ, mộc nhĩ, ăn với cơm. Liều dùng: 50 - 100g/ngày, chia 2 - 3 lần.

Theo tài liệu nước ngoài, nhộng tằm 50g sao vàng, phối hợp với hồ đào 100g thái nhỏ, trộn đều, thêm nước, hấp cách thủy cho chín nhừ, ăn cái uống nước, chữa sa dạ dày. Nhộng tằm nấu với đường phèn còn hỗ trợ chữa động kinh.

- Nhộng ve sầu: còn gọi là ve sữa non, có thân mập ú, tròn múp, chưa mọc cánh và chân, căng đầy sữa non, màu nâu nhạt. Người ta thu hoạch nhộng ve sầu bằng cách tìm vào những khu vườn hoặc khu rừng ẩm có nhiều cây to, rợp bóng râm mát mẻ, đất quanh gốc cây tơi, xốp, mềm. Lấy cuốc dọn nhẹ lớp lá khô trên mặt đất để lộ ra những lỗ tròn, nhỏ, đường kính khoảng 1,5 - 2cm. Dùng thuổng xắn xung quanh lỗ đến độ sâu 30 - 40cm, rồi bứng cả cột đất lên, bắt lấy nhộng.

Những con nhộng ở lỗ gần mặt đất to và béo mập hơn những con ở sâu trong lòng đất. Đem về, nhúng nhộng vào nước ấm cho sạch đất cát rồi dùng ngay. Dùng sống, đem tẩm nhộng với bột, chiên giòn mà ăn hoặc ngâm nhộng vào rượu thuốc trong nhiều ngày mới uống. Theo kinh nghiệm của người dân ở tỉnh An Giang, nhộng ve sầu là thuốc bổ cho người cao tuổi và trẻ nhỏ. Đàn ông tuổi trung niên dùng nhộng ve sầu thấy cơ thể sung mãn, tinh lực dồi dào, thần khí mạnh mẽ.

Theo DS Đỗ Huy Bích (Sức khỏe & Đời sống)

Danh mục bài viết Món ăn & sức khỏe

Đang tải dữ liệu loading