Duyên thắm trầu cau

Thứ Năm, 09/09/2010 07:09

4,061 xem

0 Bình luận

(0)

3147

"Có phải duyên nhau thì thắm lại, đừng xanh như lá bạc như vôi", nữ sĩ Hồ Xuân Hương từng viết những câu thơ rất hay về tình yêu gắn với duyên trầu cau, gắn với tục ăn trầu của người Việt.
"Có phải duyên nhau thì thắm lại, đừng xanh như lá bạc như vôi", nữ sĩ Hồ Xuân Hương từng viết những câu thơ rất hay về tình yêu gắn với duyên trầu cau, gắn với tục ăn trầu của người Việt. Đây là một mỹ tục của văn hóa Việt đến nay không còn nhiều, nhưng những dư âm của nét đẹp này thì vẫn còn nguyên vẹn".

Thắm lại duyên nhau

Tục ăn trầu của người Việt bắt đầu từ câu chuyện cổ tích về tình cảm vợ chồng thủy chung, anh em gắn bó, tìm nhau vượt non vượt suối và cùng hóa thành trầu, thân cau, tảng đá quấn quýt bên nhau. Hẳn đã là người Việt thì ai cũng biết tới. Cùng với câu chuyện tình cảm động ấy, vua Hùng đã cho thử lấy lá trầu ăn chung quả cau và vôi từ tảng đá nung xốp thì thấy vị cay cay, nồng đượm như mối tình của ba người.

Tục ăn trầu ra đời: Một chút vôi từ đá, lá trầu, miếng cau cuốn vào nhau, càng ăn càng say, càng thấm thía, mắt sáng môi đỏ, ấm áp lòng người.

alt
Tục ăn trầu của người Việt bắt đầu từ câu chuyện cổ tích về tình cảm vợ chồng thủy chung, anh em gắn bó, tìm nhau vượt non vượt suối và cùng hóa thành trầu, thân cau, tảng đá quấn quýt bên nhau

Theo GS. Trần Ngọc Thêm, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM, trong văn hóa Việt từ xa xưa, "miếng trầu là đầu câu chuyện", là thay cho lời mở đầu nồng nàn, đưa cay, để mọi câu chuyện dường như trở nên gần gũi, thân thiết hơn.

Không chỉ thế, khi người Việt Nam chưa biết làm duyên bằng son phấn, mỹ phẩm thì miếng trầu têm cánh phượng đã làm đẹp cho bao cô gái, bao thiếu phụ có má thắm môi duyên. Chẳng thế mà, cho tới những bà cụ lưng còng, xế bóng, cối giã trầu vẫn là vật bất li thân.

Trẻ con lớn lên ở thành thị ngày càng ít biết đến hình ảnh những bà, những mẹ thong thả nhai trầu. Mắt long lanh, môi và má hồng hào trong nắng sớm mai ửng màu mật ong. Hình ảnh ấy đẹp như cổ tích, khiến rất nhiều thế hệ người con xa xứ không ít lần bùi ngùi khi hoài hương.

Và cả những làng quê sau luỹ tre, hình ảnh những bà, những chị ăn trầu bây giờ cũng ngày càng ít. Nhưng tục ăn trầu đã trở thành một nét văn hóa không phai nhòa trong tâm hồn người Việt. Trong lễ cưới hỏi, trong các mâm thờ cúng dâng ông bà tổ tiên không thể thiếu cau, trầu.

Theo thời đại, tục ăn trầu chỉ còn là những miếng trầu têm cánh phượng gói trong phong giấy báo hồng báo hỉ nhỏ xíu. Trầu cau có khi bày ra không phải để mời nhau "đưa cay" cho câu chuyện thêm ấm nồng nhưng vẫn có ý nghĩa "là đầu câu chuyện", luôn xuất hiện nơi thành kính, lễ lạt và quan trọng hơn, nó được ngầm hiểu về sự thuỷ chung, keo sơn, gắn bó của lòng người.

Còn mãi trong nét đẹp Việt

Sẽ nhiều thế hệ lớn lên không ăn trầu nhưng vẫn âm thầm nhớ, da diết nhớ cái duyên nghĩa trầu cau trong câu chuyện cổ tích giản dị xưa. Phải chăng đó là cái duyên của sự chuyển hóa, của sự cách điệu.

Trầu, cau, vôi, vỏ...tất cả nếu đứng riêng rẻ thì mỗi thứ chỉ là cây, là đá, là lá, không có khả năng làm ấm, làm say lòng người. Nhưng khi chúng hợp lại, hòa quyện, được ấp ủ trong môi miệng của con người, thì tất cả bỗng biến đổi ấm áp. Không chỉ gần gũi, thân thiết trong đời sống, trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên trong thi ca, nhạc hoạ.

alt
Hình ảnh gắn với trầu cau luôn làm xao xuyến bao lòng người Việt

Hình ảnh gắn với trầu cau luôn làm xao xuyến lòng người khi hàng trăm áng thơ cùng hướng về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương: "Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/Này của Xuân Hương đã quệt rồi/Có phải duyên nhau thì thắm lại/Đừng xanh như lá bạc như vôi" (Hồ Xuân Hương). Hoặc dịu dàng đến tình tứ: "Nhà anh có một giàn giầu/Nhà em có một giàn cau liên phòng/Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào" (Nguyễn Bính). Hay rạng ngời dáng vẻ quê hương với "Những cô hàng xén răng đen/Cười như mùa thu tỏa nắng" (Hoàng Cầm)...

Ở Việt Nam, địa danh Mười tám thôn vường trầu đã nổi tiếng hàng trăm năm nay. Đây là vùng đất có đặc điểm thổ nhưỡng tốt, phù hợp với cây trầu, cộng với kinh nghiệm của di dân, Mười tám thôn vườn trầu trở thành nơi chuyên canh và cung cấp trầu cho khắp Nam Kì lục tỉnh.

Thuở ban đầu, Mười tám thôn vườn trầu còn hoang sơ, cỏ cây rậm rạp và nhiều thú dữ, đặc biệt là hổ. Tương truyền thời đấy, "ông ba mươi" vẫn thường đi nghênh ngang trên đường làng giữa ban ngày, còn ban đêm thì thả sức tung hoành quấy phá, vì vậy mới có câu "dữ như cọp Mười tám thôn vườn trầu". Mỗi lúc đi bán trầu, các nhà vườn thường phải nhập toán lên đến ba, bốn mươi người gồng gánh đem trầu về bán tậi Sài Gòn, Bến Nghé.

Đến đầu thế kỉ XIX, Mười tám thôn vườn trầu đã trở thành một vùng dân cư trù mật với những phiên chợ trầu sầm uất. Các vườn trầu nối liên tiếp xanh bất tận. Nghề nuôi ngựa, nuôi gà chọi ở đây khá nổi tiếng.

alt

Chị Nguyễn Kim Thanh, một tiểu thương ở chợ Bà Điểm (chợ chuyên bán trầu ở đây) chia sẻ, bán cau trầu có chỗ ngồi cao sang (vì là đồ thờ cúng) nhưng không lãi hơn bán rau vì mấy ai nghĩ đến chuyện cúng cau, trầu. Cũng may cho tới nay, trong các lễ cưới hỏi, trầu cau vẫn là thứ có giá, không thể thiếu.

Bây giờ về mảnh đất bạt ngàn trầu xưa kia, chỉ còn rất ít mảnh vườn trầu nằm sâu trong hẻm. Ở chợ Bà Điểm, ngày càng ít hàng trầu cau và chủ yếu vẫn là khách đến mua cau cưới. Không còn cái thời các bà, các chị hăm hở lựa tìm trầu quế trầu cay và các cô gái trào cho người yêu chiếc khăn trầu tình tứ. Không ai coi "răng đen" màu nước trầu lóng lánh là "mùa thu tỏa nắng".

Đám cưới, lễ lạt, trầu cau sau khi chưng rồi cũng héo dần trên đĩa. Đôi khi, gặp những cụ bà ngồi đâu đó, tay quết cối trầu thật nhuyễn, ta thảng thốt nhận ra một nét đẹp vượt thời gian. Từ hàng trăm năm trước đến nay vẫn vậy, như một vầng sáng dịu ngọt đã chìm hơn một nửa vào quá khứ.

(Theo Mỹ thuật cưới)

Danh mục bài viết

Đang tải dữ liệu loading